Đặc điểm Họ Ngao

Trên thế giới, họ ngao có khoảng hơn 500 loài, phân bố rộng ở vùng bãi triều ven biển các nước nhiệt đới và ôn đới, trong đó có nhiều loài có giá trị và được sử dụng trong thực phẩm, thịt và vỏ còn được sử dụng làm thuốc trong Đông y chữa trị được nhiều bệnh chứng. Thành phần chủ yếu của thịt ngao chủ yếu là protein 10,8%; lipid 1,6%; carbuahydrat 4,65%; calcium, sắt, phosphor, vitamin A, B1, B2, PP… Trong 1.000g thịt ngao khô có 2.400 microgram iod.

Việt Nam, họ ngao có khoảng 40 loài, trong đó ngao dầu (Meretrix meretrix) phân bố rộng ở Cô Tô, Yên Hưng, Yên Lập (Quảng Ninh); Cồn Lu, Cồn Ngạn (Nam Định); Kim Sơn (Ninh Bình); Lạch Trường và Biện Sơn (Thanh Hoá); Cửa Sót, Thạch Hà, Kỳ Anh (Hà Tĩnh). Vùng ven biển phía Bắc có ngao dầu (Meretrix meretrix), ngao mật (Meretrix lusoria Rumplius), vùng ven biển phía Nam có nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) phân bố nhiều ở các tỉnh Bình Định, Tiền Giang, Bến Tre. Đây là những loài có giá trị kinh tế và đang được người dân địa phương tiến hành nuôi với số lượng nhiều ở diện tích lớn[1].